TỰ SỰ ĐỜI & ĐẠO
TỰ SỰ ĐỜI & ĐẠO
CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
***
Tôi cũng chỉ là một chúng sanh vô minh lang thang vô định trong cõi nhân sinh này với những phiền não, đau khổ của kiếp người mà không hiểu được chính mình, không hiểu được sự sống sự chết, cái gì đang ở trong cái thân này. Tôi vẫn loay hoay, chìm đắm trong những năm tháng buồn phiền, tăm tối của cuộc đời mà cho đó là sự sống. Cho đến khi tôi gặp được Ngài – một bậc giác ngộ bằng thực nghiệm của chính Ngài đã cho tôi hiểu rõ thực tướng của vạn pháp để tôi tìm về cái thực của chính mình. Dưới sự chỉ dạy của Ngài, tôi thấy bấy lâu nay mình sống trong sự ảo tưởng. Ảo tưởng thế gian là hạnh phúc. Ảo tưởng sự tu hành. Ảo tưởng về Phật. Ảo tưởng về Niết Bàn. Cuộc đời này vốn không thật, do ta chấp nhiễm chạy theo trần cảnh bên ngoài nên cho rằng mọi thứ trong đời sống này là thật nhưng mà cái thật này là cái thật trong sự huyễn mộng.
Bằng thực nghiệm của chính tôi, tôi thấy thật rõ ràng Chư Phật không bao giờ bỏ chúng sanh mà luôn thị hiện nơi thế gian để giúp đỡ chúng sanh tu hành. Thời này vẫn có Phật có Pháp có con đường giải thoát thật sự chứ không phải bằng những lý thuyết viễn vông xa rời sự thực nghiệm. Minh sư thật sự đã xuất hiện, không phải bây giờ mà từ ba mươi năm về trước Ngài đã giáo hóa độ sanh chỉ là Ngài ẩn trong nhân gian nên không có bất kỳ một trang mạng thông tin nào về Ngài. Đến giai đoạn cùng mạt này, Phật pháp gần như đã đến giai đoạn diệt vong thì Ngài cho phép tôi nói lên sự thật của con đường giải thoát để tu hành mà trở về.
Trong kiếp nhân sinh này được gặp Minh Sư được trao truyền chánh pháp của Chư Phật là điều vô cùng may mắn là một nhân duyên lớn trong cuộc đời. Vì Phật cũng chỉ độ người hữu duyên. Cơ hội làm người khó như con rùa mù dưới đáy biển, ngàn lần ngoi lên mặt biển thì chỉ có một lần cơ may để nó rút được đầu vô bọng cây và từ đó nó ở trên mặt nước mãi mãi. Bởi vì: “Nhân thân nan đắc. Chân pháp nan văn. Minh Sư nan tầm”. Để hội tụ đầy đủ những điều kiện đó trong kiếp người mong manh, ngắn ngủi thì người đó đã đầy đủ công đức đầy đủ nhân duyên. Kiếp người quý giá vô cùng vì chỉ khi làm người mới nhận thức được Phật pháp để tu hành giải thoát. Vậy mà khi được thân người thì vẫn bị nghiệp lực lôi kéo, bị những cám dỗ thế gian trói buộc, chìm đắm trong tham lam dục vọng để mặc dòng đời cuốn trôi mà không nhận thức được Phật pháp để tu hành. Ta vẫn loay hay trong dòng đời cho đến khi thần chết đến dứt ta ra khỏi thân xác này mà ta chưa kịp làm gì cho chính ta. Như con chim bồ câu cứ loay hoay xây cái tổ của nó cho đến khi trời sáng nó vẫn chưa được giấc ngủ lại phải bay đi tìm thức ăn. Nếu không ai sống cho ta thì ta phải sống cho chính ta. Nếu không ai thương yêu ta thì ta phải thương yêu chính ta. Những gì ta chấp bên ngoài là của ta thì khi vô thường ta mang theo được gì ngoài nghiệp thiện ác. Đó mới là cái của ta theo ta như hình với bóng qua những kiếp luân hồi. Vậy tại sao ngay bây giờ ta không làm cho cái của ta đó được sạch sẽ quang sáng để một ngày ta chết ta nhẹ nhàng đi lên tầng năng lượng cao hơn.
Đời người chỉ trói buộc trong mấy mươi năm ở trần gian nhưng phải chịu biết bao sự đau khổ, phiền não. Nhà Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn ứng với tám vạn bốn ngàn tâm phiền não của chúng sanh. Để thấy cả kiếp người từ khi được sinh ra đến khi nhắm mắt là cả vạn sự đau khổ. Đầu thai vô bụng mẹ chín tháng mười ngày tăm tối, đạp bụng mẹ chui ra đã cất tiếng khóc chào cõi trần ai này. Rồi nối tiếp là cả những chuỗi ngày lo lắng, sợ hãi của học hành, công việc, trách nhiệm, lo được lo mất, kêu gào trong đau khổ. Tại vì con người vô minh cứ liên tục khuấy động tâm thức mình như sóng vỗ mặt biển thì làm sao bình an được. Nếu một ngày ta buông xuống tất cả, im lắng nhìn lại cả một hành trình của một đời người sẽ thấy toàn là niềm đau với nước mắt thì ta lại tiếp tục đi tìm cho mình một sự bình an. Nhưng chúng ta lại lầm trong sự hoang tưởng của chính tâm thức mình. Sự bình an, sự an lạc không nằm ở bên ngoài cũng không ở nơi người nào cả mà ở chính trong tâm mình. Nhưng khổ nỗi tâm ta như con khỉ nhảy nhót hết suy nghĩ này đến suy nghĩ khác thì làm sao an được. Như ly nước nếu ta cứ khuấy liên tục thì làm sao nó lắng trong được. Hãy ngừng sự khuấy động ly nước của tâm thức thì nó sẽ tự lắng trong mọi sự sẽ hiển lộ rõ ràng. Sự bình yên nằm ở ngay trong sự trong sáng đó.
Chính vì vô minh không hiểu chính mình nên sinh ra lý là phải đi tìm Đạo. Đạo ở đâu mà ta phải đi tìm? Đạo không ở đâu xa mà Đạo ở ngay trong đời sống này vẫn thường hằng với chính ta chứ không cần phải đi tìm ở nơi chốn nào cả. Đời tỏ gọi là Đạo. Đạo mê gọi là Đời. Đời hay Đạo không phải là một cái gì tách biệt cũng không có sự riêng biệt của Đời hay Đạo. Đời là nói đến sự ràng buộc. Đạo là nói đến sự hết ràng buộc. Chỉ do tâm phân biệt mà sinh ra sự chia khác rồi cho rằng đời là một cái gì đó khó khăn còn đạo là một miền đất hứa với sự an lạc sung sướng đầy lưu ly mã nảo mà chúng sanh vẫn lầm tưởng.
Khi ta buông xuống bản ngã của chính ta, bỏ đi sự chấp thủ, kiêu mạn của chính ta thì ta sẽ thấy sự đau khổ hay niềm an lạc cũng do chính ta tạo nên. Khi ta chấp thủ mọi thứ là của ta thì chỉ làm dày thêm bản ngã, ta đau khổ bởi sự đấu tranh, chiếm hữu của lòng độc ác, ích kỷ nhưng ta vẫn không nhận ra. Vậy mà khi ta không chấp thì nó vẫn vậy vẫn hiện hữu như ta đang sống đang thở trong bầu không khí này. Cuộc đời này chỉ là vay mượn giả tạm hay như cái thân này ta quý nó biết bao nhưng cũng là vay mượn tinh cha huyết mẹ mà thành. Vậy thì có gì để ta chấp rồi đau khổ trong cái của ta. Chấp hay không không chấp thì mọi sự vẫn vậy vì bầu trời này đâu của riêng ai sao ta không thuận theo tự nhiên thuận theo lẽ sống như trời mưa thì biết mưa, trời nắng thì biết nắng; trời nắng ta đòi mưa, trời mưa thì ta muốn nắng rồi khi không thỏa mãn lại kêu sao đau khổ quá. Chúng ta phải sống sao cho tử tế, sống sao cho chân chính cho đúng đạo lý con người và sống sao cho đúng luật nhân quả để không mang nợ, không tạo nghiệp thì nghiệp không buộc ràng.
Chính vì vậy đời hay đạo, tu hành hay không tu hành cũng đều là bản chất của sự sống, một sự sống tỉnh giác, minh bạch thì đem lại sự an lạc. Khi tỏ đạo thì ta làm chủ được tâm trí mình nên ta sống trọn vẹn hiếu nghĩa với đời. Khi tỏ đạo thì ta là người sống minh bạch, chính trực, là người sống quang minh chính đại trong trời đất này, là người đã minh tâm kiến tánh ung dung giữa đời và đạo. Tánh này là tánh không dính dự vạn pháp chứ không phải sự trốn tránh vì làm sao trốn khỏi nắng trời.
Chúng ta không ruồng bỏ không trốn chạy cuộc sống này mà phải trực diện chính nó với tâm buông bỏ. Cuộc đời là những niềm đau nỗi buồn để con người học hỏi mà hướng thượng hướng về một đời sống tinh thần cao cả. Chính phiền não mới sinh bồ đề mới đưa con người tìm về Phật pháp. Đạo Phật cũng không thoát khỏi cái chết nhưng chết như thế nào là điều ta cần phải học. Phật pháp không có bờ mé không có bờ bên này cũng không có bờ bên kia hay ở giữa. Trung đạo của đạo Phật là lìa cả những sắc tướng, không chấp thiện cũng không chấp ác. Chỉ vì sự chấp nhứt của chúng sanh đã tạo ra một thế giới của sự hoang tưởng rằng đạo Phật phải như thế này như thế kia rồi lầm lạc trong sự ảo hóa đó. Phật pháp hiện hữu thật giản dị ngay trong đời sống này nhằm đem lại một sự hiểu biết và nhận thức đúng đắn về cuộc sống. Chính do con người cầu kỳ, hình thức, ảo tưởng quá nhiều nên lùng bùng trong các pháp trong sự hoang tưởng của tâm thức. Sự sống đang hiển lộ một cách rõ ràng, tốt đẹp và chân thực mà do sự ảo hóa lại biến thành ao tù thành ngục thất nhốt tâm hồn ta vào nơi tăm tối.
Đạo Phật thật chân chính và đơn giản chứ đạo Phật không phải là chiếc áo với những màu sắc rực rỡ cho ta khoác lên để tô điểm cho sự thể hiện, chấp thủ của bản ngã. Đạo Phật là đạo của sự thực nghiệm, tỉnh thức để thấy thực tướng của vạn pháp là giả chẳng qua chỉ là ảo thức của ta khiến ta đi biền biệt trong sự chấp. Khi chưa hiểu thì chấp có ta có người, chấp có năng có sở. Khi đã tỏ tường gốc rễ thì không còn chấp ta chấp người, không có năng có sở. Khi không còn tri kiến chúng sanh thì sẽ khai tri kiến Phật. Khi tâm thức ta không còn vọng động, ảo hóa thì ảnh hiện trong mọi sự đều sáng tỏ. Như khi ngọn đèn đã được cháy sáng chiếu rọi khắp ngôi nhà thì không có gì mà ta không thấy mà đã thấy rõ thì làm gì còn sụp hầm hố ba đường dưới.
Khi tâm ta sáng thì ta không còn bị trói buộc trong những khuôn khổ do chính ta tạo ra đã không còn sự trói buộc trong khuôn khổ đó thì không còn sự đau khổ. Khi tâm ta sáng thì chẳng có một hình thức hay giới luật nào trói buộc thì ta không phạm giới thì cần gì giới luật mà phải giữ giới. Tâm là pháp mà pháp là tâm. Phật ở trong tâm, ngoài tâm không có Phật. Phật là người an nhàn là người tỉnh thức. Khi hiểu như vậy thì ngay đây là hiện thân của sự an lạc, Niết bàn cũng ngay tại đây. Nếu ta hiểu như vậy thì ta thấy ta chưa từng luân hồi vẫn ở trong Niết bàn, ta thấy ta đã là Phật từ ngàn xưa chứ không phải bây giờ ta mới thành Phật. Không có Phật để thành. Không có chúng sanh để độ. Tại vì ta không tin ta là Phật mà cứ mê mờ tìm Phật bên ngoài mà nếu bên ngoài có Phật thì đó là Phật của người ta chứ có phải Phật của mình đâu. Các Tổ dạy rằng: “Người ngu trị sự. Người trí chuyển tâm”. Vậy phải quay vào tâm mình, lắng đọng trong chính tâm thức mình để thấy sự chuyển biến ở trong tâm mình vì đạo Phật là đạo của sự thực nghiệm chứ không phải hý luận suông. Phải đi vào cuộc thực nghiệm trong tâm thức mình để trở về với bản lai diện mục của mình.
Phật Thích Ca ngay đêm Ngài thành đạo Ngài đã thấy “Phật tính ở ta không tăng, Phật tính ở chúng sanh không giảm. Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Ngài đã nói rất rõ ràng để chúng sanh tự tin tu hành tự tin mình cũng là một vị Phật. Phật tính trong ta vẫn thường hằng hiện hữu với ta nhưng ta không biết cứ tìm cầu những ảo ảnh bên ngoài rồi chấp nó là thật. Ta là Phật nhưng là Phật vô minh cần phải trải qua một quá trình tu hành để trừ đi những nhiễm ô huân tập nhiều đời nhiều kiếp để trở thành một vị Phật quang minh trong sáng.
Mười bức tranh chăn trâu trong nhà thiền là một sự khắc họa rõ nét và chân thực cho một sự tu hành của đời người từ vô minh đến khi đạt đạo thõng cả hai tay vào chợ độ người. Để làm được thân người thì xương phải chất như núi mới được làm người. Sẽ thật uổng phí khi ngay thân người này mà ta lại không nhận thức được Phật pháp để tu hành để tìm về cội nguồn của chính ta. Cội nguồn ta không phải ở đây mà từ một hành tinh xa xôi nào mà do sự chấn động năng lượng ta rơi xuống ấm giới phải trải qua ngàn năm triệu kiếp tiến hóa mới có được thân người này để tu hành tìm lại chính mình, tìm lại nguồn cội của chính mình.
Do luân hồi nhiều kiếp bị bức màn vô minh bao phủ nên ta cần có Minh sư để mồi lại ngọn đèn đã tắt của ta thành ngọn đèn sáng. Ta chính là ngọn đèn Nhiên Đăng đã có từ ngàn xưa nhưng do luân hồi nhiều kiếp ngọn đèn đã tắt, thân đèn đã bám đầy bụi bặm, họng đèn thì bị hư, bị khô dầu, tim đèn đầy muội than thì làm sao ngọn đèn cháy sáng được. Minh sư sẽ chỉ những phương pháp để ta lau bụi bặm trên thân đèn, cách sửa họng đèn, tim đèn để thân đèn được sạch sẽ. Khi đèn đã sạch sẽ dầu đã được thông lưu lên tim đèn với đầy đủ oxi xối xuống thì chỉ cần mồi ngọn đèn là ngọn đèn sẽ được cháy sáng. Đó là ngọn đèn Nhiên Đăng Phật mà Phật Thích Ca dưới cội bồ đề, Ngài cũng thấy lại được ánh sáng của Phật Nhiên Đăng và đến thời Lục Tổ cũng được thấy Nhiên Đăng Phật. Trước thời Phật Thích Ca thì gọi là Phật Nhiên Đăng, từ thời Phật Thích Ca về sau được gọi là Phật A Di Đà hay vô lượng quang. Đó là một năng lượng trùm khắp vũ trụ này mà ta cũng là một phần của năng lượng A Di Đà.
Ta phải hiểu cho tường tận, vì căn cơ của chúng sanh còn thấp nên Phật Thích Ca mới nói có Phật A Di Đà để chúng sanh dễ bám dễ nương tựa Và câu niệm Nam mô A Di Đà Phật như chiếc cọc cắm xuống dòng để chúng sanh bám vào chờ đủ duyên để được lên bờ. Khi niệm Phật chúng ta phải hiểu Phật thấy Phật thì mới đúng câu niệm Nam mô A Di Đà Phật. Phật là sự tỉnh thức. Nam mô là quy về. A Di Đà là năng lượng sống nguyên bản là năng lượng ánh sáng trùm khắp vũ trụ này. Cho nên câu niệm Nam mô A Di Đà Phật là để chỉ chúng sanh đời sau phải quy về hay trở về lại ánh sáng vô lượng quang tỉnh giác đó là sự thực nghiệm của một sự tu hành chân chính chứ không phải tụng niệm suông là được Phật đến rước.
Hiện nay có rất nhiều người bằng hình thức nào đó cũng tìm về âm thanh nguyên bản của vũ trụ để tìm sự bình yên trong âm thanh. Trong kinh điển cũng nói đến âm thanh Quán âm hay Nhĩ căn viên thông với nhiều tầng âm thanh khác nhau. Đó là âm thanh bên trong chứ không phải âm thanh bên ngoài. Các pháp của Chư Phật qua hàng ngàn năm đã bị thất truyền nhưng sự thất truyền này cũng do chúng sanh không đủ căn cơ, trí tuệ và lòng từ bi để học để nhận. Tâm ma mà học pháp Phật thì chỉ đi hại chúng sanh mà thôi. Hiện nay các pháp bí truyền này đã được bậc giác ngộ truyền thừa trong nhân gian cho những ai đủ nhân duyên đủ tâm lực để nhận pháp tu hành.
Thời gian chỉ đi một chiều trôi qua không lấy lại được, chúng ta chỉ đi qua trần gian này mấy mươi năm nên cùng dìu dắt nhau cùng yêu thương nhau để đi qua hết cõi tạm này mà thôi. Khi tôi có lấy được cục vàng thì tôi cũng nói với mọi người thật sự có vàng và chỉ cách để mọi người cùng lấy vàng. Nên khi tôi biết sự thật mà tôi không nói lên sự thật có Phật có Pháp thì tôi thấy có tội với Chư Phật, có lỗi với anh em mình. Tôi sẽ là tội đồ khi mình được lên bờ bỏ mặc anh em mình vẫn còn than khóc dưới dòng mà không giúp đỡ. Cũng vì vậy tôi muốn nói của sự thật cũng vì một chút nhân chi sơ tính bản thiện trong tôi để giúp mọi người tỉnh lại mà tìm về con đường sự thật chứ tôi không mưu cầu một điều gì cả. Mưu cầu gì ở cuộc đời này? Tình? Hay tiền? Tất cả chỉ là sự phiền não và cái chết đang chờ đợi. Khi hiểu chân lý thì tu còn không kịp đời người thì thời gian đâu mà chạy theo những ảo tưởng không thật. Đời này mỏng lắm rồi nên tôi cũng muốn góp chút tâm sức nhỏ bé của mình để nói lên sự thật đã có Minh sư hiện đời với đầy đủ lý – sự cho sự giải thoát ngay trong kiếp này nếu người đó đủ căn cơ và nếu ta chưa đủ duyên giải thoát trong kiếp này thì bằng các pháp môn của Ngài sẽ rút ngắn sự luân hồi để nhanh đạt quả vị giải thoát. Còn nếu ta cứ tiệm tu thì đến bao giờ mới giác ngộ. Ngay khi có một vị chỉ thẳng một con đường đến tận đầu nguồn phăng dấu Phật thì tại sao ta lại không đi.
Đức Giê-su cũng chỉ thị các đệ tử: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến và không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.
Thời gian không lặp lại nếu vội vàng gặp tà sư ma đạo thì uổng một kiếp người. Còn khi cẩn thận quá thì hết thời gian hết một đời cũng uổng phí kiếp người. Điều này đòi hỏi công đức và trí tuệ của mỗi người nên phải nhìn nhận một cách tổng thể về giáo lý và phương pháp của một vị Minh sư. Đó có phải bằng sự chứng ngộ và thực nghiệm của vị ấy hay chỉ là bánh vẽ là lý thuyết suông tổng hợp từ kinh điển.
Thời gian không chờ đợi ai không chờ đợi điều gì. Có chăng chỉ là cái chết đang chờ đợi ta rồi lại tiếp tục sự luân hồi chìm đắm trong đau khổ qua từng kiếp sống. Tha thiết mong mọi người hãy tích cực cho hành trình giải thoát sanh tử của chính mình. Hiện đời đã có Minh sư thì hãy tìm về Minh sư để học Phật hiểu Phật và thành Phật.
Trang chuongvang.net này như một lời tri ân Chư Phật, tri ân tất cả chúng sanh đã cho tôi trí tuệ cho tôi học hỏi những bài học giá trị trong kiếp nhân sinh này. Tôi may mắn gặp được một vị giác ngộ đã khai thị cho tôi thấy sự quý giá của kiếp người và giá trị của sự tu hành để giải thoát khỏi mọi sự trói buộc của tâm thức đưa ta trở về với cái nguyên sơ chân thật của bản tâm. Ngài chỉ thẳng một con đường “trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật” bằng những phương pháp thực hành và sự thọ pháp để thấy Phật thành Phật là sự thật. Tôi thấy rõ ràng đây chính là sự truyền thừa của Chư Phật vì Ngài có đầy đủ quyền năng về lý phật về sự phật để khai mở trí tuệ cho mọi người, khai mở được tất cả những điều mà con người quên mất đi từ ngàn xưa đến giờ chứ không phải là quyền năng của thần thông biến hóa.
Ở đây tôi không khoe khoang không vụ lợi bất cứ điều gì. Tôi cũng không tranh luận hay phê phán về bất kì ai hay bất kì pháp tu nào cả. Bằng sự thực nghiệm tu hành của chính bản thân tôi, tôi tha thiết nhắn gởi một thông điệp đến với mọi người rằng Minh sư đã hiện đời, con đường giải thoát sanh tử là hoàn toàn có thật, phương pháp thành Phật là hoàn toàn có thật. Đây là sự tổng hợp của tất cả các pháp từ thấp đến cao theo từng đẳng cấp tu hành mà chỉ có một bậc giác ngộ hoàn toàn mới có sự thực nghiệm con đường sanh tử rõ ràng từ đó đưa ra các pháp hành đã thất truyền từ ngàn năm nay.
Bậc giác ngộ mà tôi được gặp thật giản dị. Ngài không mong cầu một điều gì nơi chúng sanh. Ngài chỉ nói lên bản chất thực của cuộc đời về thực tướng của vạn pháp. Tại sao ta luân hồi và phương pháp nào để ta thoát khỏi sự luân hồi. Ta từ năng lượng nào đến đây và bằng phương pháp nào khi chết để ta trở lại hòa nhập nguồn năng lượng đó mới gọi là giải thoát. Con người là bộ máy sinh học cần có năng lượng để phục vụ cho thân thể này hoạt động thông qua việc ăn uống. Và con người có hai dạng năng lượng chuyển hóa lẫn nhau là năng lượng vật chất và năng lượng vũ trụ. Các pháp môn của Ngài giúp ta chỉnh sửa dòng năng lượng trong nội thể để từ đó gột rửa sạch sẽ những nghiệp chướng trong tâm và điều kiện tiên quyết là phải ăn chay để tránh phạm sát giới. Khi tâm đã trong sáng thì Ngài sẽ thọ pháp cho ta thấy ta chính là ánh sáng A Di Đà hay vô lượng quang – là năng lượng vô lượng vô biên trùm khắp vũ trụ này (nói ngắn gọn thì ta là một phần của năng lượng vũ trụ). Năng lượng nguyên bản sinh ra ánh sáng và âm thanh nguyên bản. Ánh sáng và âm thanh này đều có sẵn trong ta nhưng ta không nhận ra mà cần phải có Minh sư khai mở cánh cửa trời để câu thông với năng lượng vũ trụ. Để vận chuyển được năng lượng trong nội thể với năng lượng bên ngoài cần có pháp Chuyển Hóa Năng Lượng để chuyển hóa từ năng lượng vật chất sang năng lượng vũ trụ và từ năng lượng vũ trụ sang năng lượng vật chất. Như sự chuyển hóa giữa dầu và không khí trong ngọn đèn dù có đầy dầu thông lưu lên tim đèn nhưng không có oxi bên ngoài thì ngọn đèn không thể cháy sáng.
Quan trọng nhất vẫn là âm thanh nên pháp môn Quán âm cực kì vi diệu cho sự tu giải thoát. Là những pháp bí truyền của Chư Phật đã thất truyền từ hàng ngàn năm nay. Chỉ có vị Minh sư đã thực chứng qua các tầng âm thanh mới hướng dẫn chúng ta vượt qua được các tầng âm thanh. Trong kinh Pháp Hoa, Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng đều nói về các tầng âm thanh như tiếng Phạm Âm, Thắng Bỉ Thế Gian Âm, Lôi Chấn Âm, Hải Triều Âm. Ngài giảng rất rõ ràng các tầng âm thanh qua từng đẳng cấp tu và mỗi âm thanh tương ứng với tầng năng lượng nào (tầng trời Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới). Thắng Bỉ Thế Gian Âm là tiếng Om Ma Ni Pad Me Hum là âm thanh nguyên bản lúc vũ trụ mới hình thành hai thái cực âm dương mà khi tách ra tạo nên tiếng Om. Là từ vô cực (nguyên bản) chuyển sang thái cực (có âm dương), từ thái cực bắt đầu phân tách ra lưỡng nghi sinh ra tiếng Om. Từ tiếng Om kéo dài sự va chạm năng lượng sinh ra tiếng Om Ma Ni Pad Me Hum và khi âm thanh này rõ ràng sẽ thu từ tiếng Hum trở về lại tiếng Om vang vọng. Sự va chạm năng lượng sẽ tạo ra tiếng nổ Lôi Chấn Âm và sau đó là âm thanh êm dịu nhẹ nhàng của tiếng Hải Triều Âm. Ta trở về lại hư không, bản ngã không còn tồn tại chỉ còn là tánh biết, vẫn rõ ràng tất cả nhưng không còn nhiễm ô thế gian.
Tôi là một minh chứng chân thực khi nhận được sự hướng dẫn từ bậc giác ngộ để tu hành. Các pháp thật vi diệu nên tôi cũng muốn truyền đi thông điệp đến mọi người rằng Chư Phật không hề bỏ chúng sanh, Bồ tát Tùng địa dũng xuất thị hiện liên tục trong cõi nhân gian này để độ chúng sanh. Chỉ là mắt ta mù, tai ta điếc nên không thấy không nghe nên cần có Minh sư khai mở cho ta được sáng tỏ.
Những gì tôi nhận được từ Chư Phật tôi cũng muốn chia sẻ đến với cộng đồng để mọi người cũng được nhận giống như tôi. Hiện đời đã có Minh sư có lý có pháp để ta tích cực trên con đường giải thoát. Dù là đi qua cõi tạm này mấy mươi năm nhưng chúng ta hãy làm cho đời này của ta thật sự có ý nghĩa có giá trị nhân sinh. Chúng ta phải là người được chọn trên bàn của Chư Phật, là hạt lúa được vào kho lẫm của Thiên Chúa. Chúng ta phải là người được chọn chứ không phải là người bị đào thải qua cuộc thanh lọc của Thượng đế.