VĂN CẢNH SÁCH TỔ QUY SƠN
I – CẢNH GIÁC
- Cảnh giác nghiệp quả vô thường:
Phàm đã tạo nghiệp thì bị nghiệp buộc ràng mà thọ sắc thân; đã mang thân xác thì chưa ai tránh khỏi cái lụy hình hài. Thọ chất thừa của cha mẹ; mượn các duyên mà hợp thành. Tuy được bốn đại giúp đỡ giữ gìn, chúng thường trái nghịch lẫn nhau.
Sự vô thường già và bệnh không hẹn với người. Sớm còn tối mất, trong khoảng sát na liền qua đời khác, ví như sương mùa xuân, móc buổi sáng bỗng chốc liền không; cây bên bờ, dây leo thành giếng đâu được lâu dài. Ý nghĩ này nối tiếp ý nghĩ khác cực kỳ mau chóng, trong khoảng một sát na, hơi thở chuyển tức là đời sau. Sao vẫn an nhiên để đời mình trôi qua trống rỗng?
- Cảnh giác xuất gia không trọn:
Đối với cha mẹ chẳng cung phụng ngọt ngon, đối với lục thân cố nhiên lìa bỏ, chẳng có khả năng trị nước an bang, nghiệp nhà vứt bỏ sự thừa kế, xa lìa làng xóm, cạo tóc vâng theo thầy. Trong thì siêng năng công phu khắc niệm, ngoài thì mở rộng đức không tranh, vượt xa trần thế, kỳ vọng giải thoát.
Sao mới bước lên hàng giới phẩm, lại nói ta đây là bực Tỳ kheo? Thọ của đàn việt, ăn của thường trụ mà chẳng biết cân nhắc suy nghĩ vật này từ đâu đem đến, cứ bảo việc hiệp cúng là phép như thế. Ăn rồi dụm đầu huyên náo, chỉ nói chuyện tạp thế gian. Nhưng một đời đuổi theo cái vui, mà chẳng biết sự vui ấy là nguyên nhân của khổ. Bao kiếp xưa kia chạy theo trần cảnh mà chưa từng phản tỉnh. Thời giờ chìm mất, năm tháng luống qua, thọ dụng ân nhiều, của cúng càng lắm, từ năm này qua năm khác mà không nghĩ đến sự lìa bỏ! Chứa nhóm thêm nhiều, giữ gìn thân giả.
Đức Đạo Sư có dạy khuyên răn các vị Tỳ kheo, muốn tiến trên đường đạo để trang nghiêm thân mình, thì đối với ba việc ăn, mặc và ngủ chẳng nên hưởng dụng đầy đủ. Nhưng con người đối với việc này đam mê không dừng, mà ngày qua tháng lại như gió thổi bỗng chốc bạc đầu. Do đó, kẻ hậu học chưa nghe được ý chỉ tông thú của Phật pháp thì phải hỏi rộng các bậc đi trước hiểu biết, sao toan bảo kẻ xuất gia sang quý ở nhu cầu ăn mặc.
- Cảnh giác không chịu tu:
Đức Phật chế ra giới luật trước tiên là bắt đầu cởi bỏ sự mê muội. Phép tắc oai nghi sạch như băng tuyết. Dừng là giữ, làm là phạm. Đó là cách thúc liễm sơ tâm, điều mục và chương tiết nhiệm nhặt rõ ràng, làm thay đổi những sự tồi tệ. Chưa từng thân cận và tiếp thu giới luật nơi chiếu pháp, thì đối với thượng thừa là giáo lý liễu nghĩa làm sao có khả năng phân biệt rành rẽ. Đáng tiếc một đời trôi qua trống rỗng, sau hối khó kịp. Giáo lý chưa từng để dạ thì đạo màu không do đâu mà hội mà sáng tỏ.
Đến khi tuổi đời cao, tuổi đạo lớn mà trong bụng trống không, tâm lại tự cao, chẳng chịu gần gũi nương tựa bạn hiền, chỉ biết ngông ngạo, chưa am tường pháp luật và thúc liễm hoàn toàn không có. Hoặc lời to tiếng lớn nói năng vô độ, không kính các bậc trên, giữa và dưới, không khác sự hội tụ của những người bà la môn. Khua chén bát ra tiếng, ăn rồi đứng dậy trước. Tới lui trái phép, thể thức của một vị Tăng hoàn toàn không có. Đứng ngồi lất khất làm động tâm niệm của người khác. Chẳng còn một chút quy tắc, tí xíu oai nghi, thì lấy gì thúc liễm kẻ sau, người mới học không nhơn đâu mà bắt chước.
Vừa mới được cảnh giác, thì liền bảo ta đây là tu núi. Quả thật chưa nghe giáo pháp của Phật và chưa hành trì, nên tánh tình vẫn còn một chiều thô tháo. Sự thấy biết như thế là vì tâm ban đầu biếng nhác, tham lam nhân đó mà tuần tự phát sinh. Dần dà theo đời biến thành quê kệch. Không dè già yếu lóng cóng hủ lậu, gặp việc như đối diện với tường vách. Kẻ hậu học thưa gởi thì không có lời tiếp dẫn. Dù có luận nói thì cũng không hợp với điển chương. Hoặc bị khinh khi, liền trách kẻ hậu sinh vô lễ, lòng giận nổi lên, nói lời át người.
- Cảnh giác phải chịu luân hồi ác báo:
Một sớm bịnh nằm ở trên giường, các khổ bao quanh ép ngặt, sớm tối lo nghĩ trong lòng bàng hoàng. Đường trước mênh mông mù mịt chưa biết về đâu. Từ nay mới biết hối lỗi. Đến lúc khát nước mới đào giếng nào có ích gì? Giận mình sớm chẳng lo tu, đến lúc tuổi già nhiều điều tội lỗi. Lúc sắp ra đi khỏi cuộc đời mau chóng như trở bàn tay, thật là sợ sệt kinh hoàng. Đến lúc lụa thủng chim sẻ bay, tâm thức phải tùy theo nghiệp. Như người mắc nợ, ai mạnh kéo trước, tâm rối như tơ, hễ chỗ nào nặng thì rơi vào. Vô thường là quỷ giết hại, ý nghĩ này nối tiếp ý nghĩ khác không dừng. Mạng sống không thể kéo dài, thì giờ không thể chờ đợi. Trời, người và chúng sanh trong ba cõi chưa ai tránh khỏi. Thọ thân như thế chẳng luận kiếp số.
- Kết thúc cảnh giác:
Cảm thương than thở, đau đớn như cắt tim gan. Đâu thể gói lời nói nên phải trao cho nhau những lời cảnh tỉnh nhắc nhở. Đáng hận là cùng sinh trong cuối thời tượng pháp, xa Phật đã lâu, pháp Phật sống còn thưa thớt, lòng người đa số lười biếng. Nên xin trình bày sự thấy biết như lấy ống dòm trời, để chỉ bảo cho người sau. Nếu chẳng bỏ thói kiêu căng thì thật khó mà thay đổi.
II – SÁCH TIẾN
- Sách tiến xuất gia không trọn vẹn:
Phàm người xuất gia mỗi khi cất bước là vượt lên phương trời cao rộng, tâm tánh và hình dung khác với người tục. Với chí hướng nối tiếp dòng thánh một cách rạng rỡ, làm chấn động và thu nhiếp chúng ma, để báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu chẳng như thế là kẻ lạm xen vào hàng Tăng sĩ. Lời nói và đức hạnh thô sơ thưa thớt, hưởng dùng của tín thí tốn hao vô ích. Đường đi năm xưa một tấc một bước cũng không dời đổi. Hoảng hốt cả một đời thì lấy gì mà nương cậy? Huống chi Tăng tướng đường đường, dung mạo khả quan là do căn lành đã trồng từ đời trước, nên cảm được báo thân đặc biệt này. Vậy mà lại nghĩ ngồi thẳng khoanh tay, chẳng quý từng tấc bóng. Nếu đạo nghiệp chẳng chuyên cần, thì đạo quả không có nhân duyên thành tựu.
- Sách tiến thực hành những việc căn bản của người xuất gia:
Từ biệt cha mẹ, quyết chí xuất gia, mặc áo tu sĩ, là ý muốn vượt lên ngang hàng bậc nào kia chứ? Sớm tối lo nghĩ, đâu nên chểnh mảng để thì giờ trôi qua. Tâm kỳ vọng mình sẽ là rường cột của Phật pháp, dùng làm gương mẫu cho đời sau. Thường tâm niệm như vậy mà chưa có thể phù hợp một phần nhỏ của sự xuất gia.
Lời nói ra nên hợp với điển chương; việc đàm luận phải phù hợp với sự kê cứu về trước. Hình nghi đỉnh đạc, ý chí thanh cao nhàn nhã.
Đi xa việc chính yếu là nhờ bạn tốt để luôn luôn thanh lọc tai mắt; dừng lại và ở đâu ắt phải chọn bạn để từng giờ nghe điều chưa nghe. Nên nói: Người sinh ta là cha mẹ; người tác thành cho ta là bạn bè. Nương gần người lành như đi trong sương móc, tuy chẳng ướt áo mà mỗi lúc có sự thấm nhuần. Cũng vậy, quen thân người ác thì thêm lớn sự thấy biết ác. Sớm tối tạo ác, liền bị quả báo trước mắt, sau khi chết sẽ bị chìm đắm, muôn kiếp không được trở lại.
Lời nói ngay trái tai, sao chẳng ghi vào lòng dạ? Lại hay rửa lòng nuôi đức, ẩn tích tinh thần, dứt tuyệt ồn náo.
- Sách tấn thu thiền:
Nếu muốn tham thiền học đạo, vượt ngay lên cửa phương tiện, thì tâm hiệp với chỗ nhiệm màu, nghiên cứu tinh tường, quyết chọn sâu kín, mở tỏ nguồn chân, hỏi rộng các bậc đi trước hiểu biết và gần gũi bạn lành. Tông này khó đạt được đến chỗ kỳ diệu, việc thiết yếu là phải dụng tâm chín chắn vi tế, trong khả năng này mới có thể đốn ngộ chánh nhân và là thềm bậc lần ra khỏi trần tục. Được như vậy, tức phá hai mươi lăm hữu trong ba cõi, các pháp trong ngoài đều biết chẳng thật, theo tâm biến hiện đều là giả danh. Nên chẳng đem tâm ghé hợp, hễ tình chẳng phụ thuộc vật, thì vật há ngăn ngại người! Mặc cho pháp tính châu lưu không cắt đứt cũng không nối tiếp, nghe thanh thấy sắc là việc tầm thường, bên này bên kia ứng dụng chẳng thiếu.
Động tịnh đều được như thế, thật chẳng uổng mặc pháp phục, cũng chính là báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Đời đời nếu chẳng thối chuyển thì địa vị Phật quyết có thể kỳ vọng, là người khách qua lại trong ba cõi, ra vào vì người là khuôn phép. Một môn học này cực kỳ huyền diệu, chỉ lo khẳng tâm, ắt chẳng lừa dối nhau.
- Sách tiến học hỏi hoằng pháp, trai giới và hướng thượng:
Nếu có người bậc trung chưa thể vượt ngay lên được thì nên để tâm vào giáo pháp, tìm hiểu và ôn tập kinh điển, sưu tầm nghĩa lý tinh tường, để truyền bá xiển dương chánh pháp, tiếp dẫn kẻ hậu học, báo ân Đức Phật. Thời giờ cũng chẳng bỏ trống, ắt phải lấy công hạnh trên đây mà tự hộ trì. Động tịnh đều có oai nghi mới là pháp khí trong hàng Tăng bảo. Há chẳng thấy dây sắn nương cây tùng mà vươn lên chót vót ngàn tầm; phải gởi đời mình vào nhân tố thù thắng mới có thể được lợi ích rộng lớn. Hãy khẩn thiết tu trì trai giới, chớ khinh thường, vượt bỏ vì trai giới là nhân thù diệu đưa đến quả tối thắng trong mọi đời kiếp.
Chẳng nên để một đời đi qua nhàn hạ, một giờ lười biếng trôi qua. Đã để thì giờ đáng tiếc mất mát mà chẳng cầu sự tiến lên và bước tới. Như thế tiêu dùng của tín thí mười phương một cách vô ích, cũng là cô phụ bốn ân. Tích chứa sự hệ lụy càng sâu thì tâm trần dễ bị bít lấp, gặp việc thành ra bế tắc, bị người khinh khi.
Người xưa nói: Ai kia đã là trượng phu thì ta đây cũng vậy, chẳng nên tự khinh mà thối lui và khuất phục. Nếu chẳng như thế thì ở cửa thiền vô ích, dần dà qua một đời, quả thật không được một chút lợi ích.
III – TỔNG KẾT.
Cúi mong quý vị vùng lên chí khí quyết liệt, mở ra hoài bão cao xa, động tịnh đều nhìn đến bậc thượng lưu, chớ chuyên theo thói thô bỉ tầm thường. Đời nay lại phải quyết đoán cho xong, việc ấy chính mình phải lo liệu cho mình, chớ chẳng do người khác. Muốn thế, ý dứt duyên quên, chẳng tác đối với trần cảnh. Tâm vốn không, cảnh vốn lặng, chỉ vì bế tắc lâu ngày chẳng thông suốt mà thôi.
Hãy xem cho chín bài văn này, để luôn luôn nhắc nhở sách tấn, cố gắng làm chủ đời mình, đừng theo thói thường tình của con người. Bị nghiệp quả lôi kéo, khó mà trốn tránh được, cũng như tiếng hòa thì tiếng vang thuận, hình ngay thì bóng thẳng, nhân quả thật rõ ràng, há không lo sợ. Nên kinh nói: “Giả sử trong trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp chẳng mất, lúc nhân duyên hội ngộ, quả báo trở về, mình phải chịu”. Cho nên phải biết ba cõi là hình phạt ràng buộc giết người, mà nỗ lực cần tu, chớ để ngày giờ trôi qua trống rỗng. Đã biết sâu xa về những tội lỗi, nên mới khuyên nhau hành trì. Nguyện trăm kiếp ngàn đời dù sinh ra ở đâu cũng đồng làm bạn pháp.
Nên làm bài minh rằng:
1. Răn dạy:
Thân này như nhà mộng
Tựa hoa đốm trong không
Đời trước thật vô cùng
Đời sau nào biết được?
Sinh ra ở chốn này
Mất đi ở chỗ khác
Khi lên rồi lúc xuống
Trôi lăn lắm cực nhọc
Luân hồi trong ba cõi
Bao giờ mới thôi dứt?
Vì tham luyến thế gian
Nên mượn duyên thành chất
Từ sanh cho đến già
Không được một sở đắc
Do gốc rễ vô minh
Gây nên sự lầm lạc
Thì giờ nên quý tiếc
Mạng sống thật khó lường
Đời này luống trôi qua
Đời sau bị ngăn lấp
Từ mê lại đến mê
Đều do bọn sáu giặc
Đã qua lại sáu đường
Lại lên xuống ba cõi.
2. Chỉ cách tu tập:
Nên sớm hỏi Minh sư,
Thường gần gũi cao đức
Quyết chọn lấy điều lành
Vứt bỏ chướng phiền não.
Đời vốn tự giả dối
Duyên cảnh cũng phù hư
Xét cùng lý pháp giới
Ngộ là phép phải theo
Tâm và cảnh đều bỏ
Người và pháp chẳng còn.
Sáu căn hằng vắng lặng
Đi đứng vẫn an nhiên
Một niệm không còn sanh
Vạn pháp đều dứt bặt.