CỔ PHẬT NHIÊN ĐĂNG
Thời Mạt pháp, chúng sanh vô minh luôn chạy theo vọng tưởng nên không nhận chân được chánh pháp để tu hành. Không phải vì vậy mà chánh pháp mất đi. Mạch pháp vẫn tồn tại. Phật không bỏ chúng sanh nên luôn có Minh sư xuất hiện trên thế gian này để trao truyền chánh pháp nhưng do chúng sanh phước mỏng nên không đủ căn duyên để gặp chánh pháp gặp Minh sư.
Từ vô thỉ, ta chính là nguồn năng lượng bị văng ra từ vụ nổ Big Bang đã rơi xuống ấm giới này hình thành các tế bào hữu cơ đầu tiên trên trái đất dần tiến hóa đến con người như ngày nay. Kèm theo đó là sự kiến giải, tri giác, bản ngã, chấp thủ được huân tập và lưu lại ở hai bán cầu đại não. Mỗi người chúng ta đều tồn tại dòng năng lượng nguyên bản – dòng năng lượng A Di Đà hay Vô Lượng Quang – và chỉ có vị Minh Sư mới có thể câu thông dòng năng lượng của vũ trụ với dòng năng lượng bản thể trong ta, chỉ có Minh Sư mới có đủ quyền năng mồi lại ngọn đèn đã tắt trong ta từ nhiều đời nhiều kiếp thành ngọn đèn sáng. Minh Sư sẽ chỉ cách ta lau bóng đèn, cách lọc dầu, cách mở năng lượng bên trên cho oxi xuống, cách vặn tim đèn bằng các phương pháp Dịch Cân Kinh, Định Niệm Hơi Thở, Thân Hành Niệm, Quán Âm, Chuyển Hóa Năng lượng. Nếu ta tuân thủ thực hành tất cả các pháp môn trên theo một trình tự từ thấp lên cao cộng với cái tâm buông bỏ thì ngọn đèn của ta được lau dọn sạch sẽ có nghĩa là ta đã ngăn chặn bụi nghiệp chướng bên ngoài và dọn dẹp nghiệp chướng ở bên trong. Khi ngọn đèn đã được sạch sẽ thì dầu thông lưu lên tim đèn. Để biết dầu đang lên là ta phải nghe Âm thanh. Khi nghe Âm thanh là ta biết dầu đang lên và oxi đang xuống. Âm thanh có nhiều tốc độ nhiều loại âm thanh khác nhau nếu vừa nghe âm thanh cộng với lửa đã cháy thì sẽ phá vỡ những chủng tử nghiệp sẽ có hiện tượng nổ (Lôi Chấn Âm). Đến một ngày tiểu não với một áp suất mạnh nhất sẽ bùng vỡ để hòa nhập với năng lượng vũ trụ. Đó là ngày “khai hoa kiến Phật ngộ vô sanh”, là ngày mà vị Phật được sinh ra trên tòa sen. Búp sen đó chính là tiểu não, chơn thần được hút lên nằm trên đó và chơn thần đó cũng chính là viên minh châu. Khi đó ta thấy cả vũ trụ mà ta với vũ trụ là một không chứ không hai nên sẽ không còn bị ngăn cản bởi lớp màn mây nào nữa. Chính vì vậy mà pháp môn Quán Âm và Chuyển Hóa Năng Lượng là cực kỳ quan trọng và vi diệu để Minh Sư thọ pháp Quán Quang hay mồi lại ngọn đèn Nhiên Đăng đã tắt trong ta từ nhiều đời nhiều kiếp. Khi nghe Quán Âm đồng thời ta cũng đang vận dụng sự chuyển hóa năng lượng trong cơ thể từ năng lượng vật chất lên năng lượng vũ trụ và chuyển hóa từ năng lượng vũ trụ xuống năng lượng vật chất. Nói như vậy không có nghĩa là những pháp môn khác không quan trọng. Đều quan trọng theo từng tầng từng đẳng cấp khác nhau. Nên nói các pháp tương tục hỗ trợ nhau từ thấp lên cao như xây một ngôi nhà thì ta phải xây từ nền móng, khi có nền tảng vững chắc rồi mới xây cầu thang để lên lầu và xây lầu. Khi đã ở trên lầu rồi thì trời xanh mây trắng gió mát mẻ nhưng khi đã lên lầu rồi đã ở trên lầu rồi thì ta phải bỏ cầu thang như qua sông cần phải có con đò nhưng khi đã lên bờ rồi thì ta phải bỏ con đò đi vậy.
Thật vậy, con người mình là một sự chấn động mà rơi xuống ấm giới này rồi quên mất chính mình nhưng để phù hợp với điều kiện môi trường sống nên sinh ra thân thể này. Từ thân thể này lại càng bị nhiễm ô rồi lại đem năng lượng chính đó (năng lượng vô lượng quang) chạy theo lo những ảo tưởng bên ngoài mà quên đi ngọn đèn sáng bên trong của chính mình. Từ ngàn xưa, mỗi người là một năng lượng là một ngọn đèn là một vị Phật Nhiên Đăng. Nhưng lâu dần bị vô minh làm cho u tối như dầu cạn, dây tim đèn bị hư, họng đèn bị gỉ khô, bóng đèn bị bám đầy khói đen che lại nên mất đi ánh sáng. Từ đó ngọn đèn bị khói đen vô minh bao phủ nên sống trong bóng tối. Ngay khi hiểu được ta phải quay vào bên trong lau dọn sạch sẽ ngọn đèn để dầu được chuyển hóa lên xuống thì ngọn đèn sẽ sáng, ngọn đèn sáng thì tỏa ra hào quang. Từ đó ngọn đèn tắt trở thành ngọn đèn sáng. Ngọn đèn sáng là Phật. Ngọn đèn tắt là vô minh là chúng sanh. Khi ngọn đèn đã sáng thì ta thấy mọi sự rõ ràng không cần phải tranh luận hay biện giải bất cứ điều gì cả. Khi đèn sáng thì đi không tông tột, không bị sập hầm sập hố, không còn tạo nghiệp chướng, không còn sự hoang tưởng. Khi ngọn đèn tắt thì chúng ta cần có vị Minh sư thọ pháp cho ta thấy lại được ánh sáng ngọn đèn và ta chính là ánh sáng ngọn đèn đó. Nếu ta tiếp nhận và tuân thủ tất cả mọi yêu cầu của Ngài thì ngọn đèn của ta sẽ sáng lại và sáng mãi. Nếu tập hợp tất cả ngọn đèn sáng thì đó là thiên đường. Nếu tập hợp tất cả ngọn đèn tối thì đó là địa ngục.
Để thương lấy chính mình thì nhiệm vụ của chúng ta là phải lau sạch ngọn đèn để một ngày ngọn đèn được thắp sáng lại thì chúng ta chính là Phật Nhiên Đăng. Cổ Phật cũng chính là ta. Cổ Phật từ ngàn xưa còn bây giờ ta hành lại thì ta cũng đang được Phật Nhiên Đăng thọ ký. Có nghĩa ta chính là ngọn đèn khi dầu được thông lưu thì ta đã trở về là một A Di Đà (Vô Lượng Quang) – một năng lượng nguyên bản trước khi bị nhiễm ô.
Phật Thích Ca nói rằng Ta dưới cội cây bồ đề đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) được Phật Nhiên Đăng thọ ký và Ngài thấy được Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành, ở Ta phật tính không tăng, ở chúng sanh phật tính không giảm. Phật Nhiên Đăng – ánh sáng ngọn đèn – là vị Cổ Phật ra đời từ rất lâu về trước. Đến thời Phật Thích Ca để cho chúng sanh có niềm tin dễ hiểu dễ tu mà Ngài đổi thành Phật A Di Đà hay Vô Lượng Quang. Tuy tên gọi có khác nhau nhưng cũng đều nói đến ánh sáng vô lượng vô biên trùm khắp vũ trụ này hay năng lượng sự sống.
Mạch chánh pháp từ ngàn năm nay chưa từng bị đứt đoạn. Chư Phật vẫn luôn thị hiện trong nhân gian để trao truyền chánh pháp để giáo hóa độ sanh. Đây là bí pháp của nhà Phật nên từ thời Phật Thích Ca đến thời các vị Tổ luôn là tâm truyền tâm, ngọn đèn mồi ngọn đèn. Nên tất cả các kinh điển cũng chỉ để lại công năng chiếu sáng của ngọn đèn chứ làm sao chỉ ra ngọn đèn là thế nào chúng sinh không biết lại nhận lầm rồi lạc vào ma đạo. Như ngón tay chỉ mặt trăng dưới nước, nhờ nương theo ngón tay ta sẽ thấy mặt trăng dưới nước là mặt trăng giả để từ đó lại nương theo ngón tay chỉ mà ta ngước lên thấy mặt trăng chân thật trên bầu trời. Nhờ có ngón tay chỉ ta nương theo để thấy mặt trăng chân lý chứ không phải ngón tay là mặt trăng.
Trên núi Linh Thứu, khi Đức Phật Thích Ca đưa cành sen lên cả pháp hội không ai hiểu được ý Phật duy chỉ có Ngài Ca Diếp mỉm cười vì lúc đó Ngài đã lãnh hội được ý Phật và tâm của Ngài với tâm Chư Phật đã là một đã đồng nhất với nhau. Phật Thích Ca trao pháp môn này cho Ngài Ma Ha Ca Diếp: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trao phó cho Ma Ha Ca Diếp”.
Khi Lục Tổ đến gặp Ngũ Tổ đêm khuya, Ngũ Tổ đóng hết cửa kéo hết rèm để thọ pháp cho Lục Tổ. Hay khi Thiền Sư Huyền Giác đến gặp Lục Tổ Huệ Năng, sau khi hai bên đấu pháp nhau Tổ nhận thấy đồng một tâm nhưng phải ở lại một đêm mà thời sau gọi là Nhất túc giác. Đó chẳng phải là pháp môn bí truyền tâm truyền tâm, ngọn đèn mồi ngọn đèn của Chư Phật hay sao?
Trong Chứng Đạo Ca của Thiền Sư Huyền Giác:
“Thầy ta được thấy Nhiên Đăng Phật
Bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục.
Mấy hồi tử? mấy hồi sanh?
Sanh tử mơ màng không định dứt!
Tự thời thoắt ngộ pháp vô sanh,
Cơn vinh nhục mừng lo gì tá?
…
Một nhảy vào liền đất Như Lai”.
(Phần VIII – TỰ GIÁC)
Hay:
“Thoạt tiên Ca Diếp đèn tâm truyền
Hai tám đời Tổ sư Tây Thiên
Pháp sang đông, vào Trung thổ
Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ
Sáu đời y bát thiên hạ nghe
Người sau được đạo nhiều vô số
…
Một tánh Như Lai vốn thể đồng”.
(Phần XIII – TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU)
Thời Mạt pháp này, giáo lý của Phật Thích Ca đã hết nên dẫn đến sự điên đảo, chúng sanh cột con voi trong nhà mà đi tìm dấu chân voi trong rừng, cỡi trâu lại đi tìm trâu, đứng dưới nước mà lại kêu khát nước. A Di Đà ở ngay trong người mình mà cứ nam mô tìm cầu A Di Đà bên ngoài tâm thì làm sao có được. Phật là mình mà cứ tụng niệm bái lạy tìm cầu Phật bên ngoài thì làm sao thành Phật.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ cũng luôn nói đến Phật tánh hay Tự tánh là cũng đều nói về năng lượng nguyên bản một “bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra” đó là năng lượng ánh sáng A Di Đà hay Vô Lượng Quang.
Bên Thiên Chúa cũng nói đến dòng năng lượng này, Chúa Giê-su đã được Thánh Gio-an thọ pháp hay làm phép rửa bên dòng sông Gio-đan. “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khi Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người”. Đó là nước trời xối xuống là năng lượng của vũ trụ.
Tuy nhiên, sau khi được thấy được năng lượng nguyên bản hay ngọn đèn đã được mồi ta vẫn phải tiếp tục tu như Phật Thích Ca khi được Phật Nhiên Đăng thọ pháp, Ngài phải mất 49 ngày thiền định dưới cội bồ đề; Chúa sau khi được Thánh Gio-an thọ pháp phải mất 40 ngày vô sa mạc ẩn tu; Lục Tổ Huệ Năng khi được Ngũ Tổ truyền pháp phải mất 15 năm ẩn dật trong rừng với thợ săn để tiêu trừ tập khí.
Trong kinh điển cũng đã tán thán lực lượng ánh sáng Chư Phật qua tên của các vị Phật như: Nhiên Đăng Phật, Phổ Quang Phật, Phổ Minh Phật, A Di Đà Phật, Vô Lượng Quang Phật, Chiên Đàn Quang Phật, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật, Di-Lặc-Tiên Quang Phật, Huệ-Oai-Đăng-Vương Phật,… Tất cả các vị Phật trên đều nói đến lực lượng ánh sáng của nội thể trong tâm ta. Dòng ánh sáng này chính là Bổn Tâm ta. Vì ta còn vô minh không nhận ra dòng năng lượng của Tự Tánh nên cần có Minh Sư khai ngộ và cho ta pháp môn tu tập để trở về nguồn cội hòa nhập cùng ánh sáng Chư Phật. Quá trình tu tập là quá trình tích tụ năng lượng hay không phóng chiếu năng lượng tự tánh (năng lượng nguyên bản) ra ngoài. Thông qua lý thuyết và các pháp môn thực hành ta hoàn toàn có thể gội rửa tham sân si mà do vô minh ta đem lưu giữ vào hai bán cầu đại não. Khi ta tu đạt đến đẳng cấp tâm bất thối chuyển trước cuộc đời Minh Sư sẽ thọ pháp cho ta trực nhận A Di Đà ngay trong hiện tiền.
Khi được Minh Sư thọ pháp, Ngài sẽ cho ta thấy lại ánh sáng của nội thể ta, ta sẽ thấy và hiểu A Di Đà là gì và để ta thấy được ta chính là A Di Đà. Ngài sẽ vén màn mây vọng tưởng để cho ta biết được Chơn Tâm ta vốn tròn đầy từ ngàn xưa. Khi đó, ta như một người đi xa đã biết rõ đường trở về nhà. Minh Sư như người thợ điện cắt cầu dao trời để tất cả các điện năng trong các tế bào lưu trữ nghiệp quá khứ và định nghiệp của hiện tại không thu năng lượng vào. Nhưng Minh Sư vẫn giữ lại định nghiệp để ta tiếp tục sống. Ngay khi đó ta nhận thấy tất cả các pháp hữu vi lẫn vi tế như sụp đổ hoàn toàn thì ra tâm phật vốn bất sinh, tâm phật vốn có từ ngàn xưa. Ta đã là Phật từ ngàn xưa chứ không phải bây giờ ta mới là Phật nhưng do vô minh ta không nhận ra ta chính là Phật. Một trạng thái an lạc tràn ngập khắp thân tâm như sóng biển vỗ vào bờ, nhẹ nhàng và êm dịu. Ta như một lần được tái sinh lại vì bấy lâu nay ta bị vô minh giày xéo. Ta phải tu tập để tâm ta trong sáng như lúc được Minh Sư thọ pháp thì khi chết tâm ta sẽ trở về hòa nhập với Chư Phật. Chính vì vậy, khi Minh Sư khai ngộ cho ta trực diện bản tâm tức là ngọn đèn đã được mồi. Nhưng ta vẫn phải tiếp tục tu để giữ ngọn đèn luôn cháy sáng và càng lúc càng sáng cho đến khi sáng mãi mãi là ta trở về hòa nhập với lực lượng A Di Đà – một sự giải thoát hoàn toàn.
Đây là điểm đến cuối cùng mà mọi hành giả tu hành cần đạt đến và cũng ngay đây hành giả mới thật sự là thực hành đúng câu niệm Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô là quy về. Phật là sự thức tỉnh là sự tỉnh giác. A Di Đà là năng lượng Vô Lượng Quang. Cho nên câu niệm Nam mô A Di Đà Phật là để chỉ cho chúng sanh phải quy về Vô Lượng Quang tỉnh giác thì mới đúng là niệm Nam mô A Di Đà Phật. Muốn quy về hành giả phải thực hành các pháp tu như Dịch Cân Kinh, Định Niệm Hơi Thở, Quán Âm, Chuyển Hóa Năng Lượng thì hành giả mới đủ lực trở về A Di Đà – Vô Lượng Quang.
Do căn cơ của chúng sanh còn thấp nên Chư Phật mới đưa ra hình ảnh các vị Phật hay Bồ tát để chúng sanh dựa vào đó mà tu nhưng lâu dần hình thành thói quen chấp hình chấp tướng chấp các pháp hữu vi bên ngoài mà quên mất chính mình là Phật là một nguồn năng lượng sống vĩnh hằng chỉ vì vô minh mà dẫn dắt luân hồi. Hay như câu niệm Nam mô A Di Đà Phật cũng chỉ là phương tiện là chiếc cọc giữ lại chúng sanh trong dòng sông dục giới này mà từ từ hiểu để tu để nhận ra mình chính là A Di Đà. Nhưng lâu dần chúng sinh bị mê lầm cứ tụng niệm sáo rỗng bằng miệng mà mong cầu giải thoát mong cầu Phật đến rước.
Trong Hội Pháp Hoa, Phật Thích Ca nói rằng chỉ có trí tuệ nhà Phật mới hiểu được giáo lý của Phật. Xe dê của Thanh Văn, xe nai của Duyên Giác, xe trâu của Bồ Tát,… chỉ là phương tiện để dẫn dụ chúng sanh thoát khỏi ngôi nhà lửa. Phật Thích Ca đã giảng kinh trong 49 năm hoằng pháp độ sanh, tùy vào căn cơ, tùy vào điều kiện của chúng sanh mà Ngài giảng kinh. Điểm cốt lõi của kinh điển là để chúng sanh nhận chân được phật tính hay ngọn đèn sáng của Chư Phật. Kinh điển Chư Phật thuyết ra rất là thâm sâu nên chúng ta phải đọc phải chiêm nghiệm lời giảng của Ngài và phải hành theo chứ không phải đọc tụng như trả bài lại cho các Ngài.
Khi đã có các phương tiện cứu cánh – chính là các pháp rồi ta cần phải có sự hỗ trợ của dòng năng lượng ánh sáng Vô Lượng Quang đưa ta thoát khỏi tam giới, vượt 72 tầng trời, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Khi Phật Thích Ca thuyết pháp ở đẳng cấp Vô tướng, chúng sanh không hiểu nên mới có sự ra đi của hơn 500 tì kheo, tì kheo ni thời ấy do không đủ căn cơ không đủ trí tuệ để hiểu vì họ chấp vào hữu tướng có Niết Bàn có nơi để về. Giáo pháp chân truyền của Chư Phật chính là để nhận ra nguồn năng lượng ánh sáng Vô Lượng Quang bên trong mỗi người chúng ta chứ không phải do Chư Phật ban phát hay tìm cầu bên ngoài.
Đạo Phật là đạo thực nghiệm, một sự thức tỉnh và trí tuệ.
Hiện nay có triệu triệu người vẫn niệm Nam mô A Di Đà Phật nhưng vẫn không hiểu được bản chất của A Di Đà là gì và vẫn luôn niệm suông bằng miệng để mong cầu ngày chết Phật A Di Đà đến rước. Không phải niệm Nam mô A Di Đà Phật là về A Di Đà Phật. Mình chính là Phật mà không lo lau chùi dọn dẹp vị Phật tối tăm bụi bặm của mình để trở thành vị Phật quang sáng mà cứ lo lau chùi váy lạy những bức tượng xi măng cốt thép mong giải thoát. Không đâu có được. Tâm mình vẫn đầy tội lỗi, nghiệp chướng vẫn đầy dẫy thì làm sao giải thoát?
Chính vì vậy, khi thấy Phật rồi ta mới thực hành đúng câu Nam mô A Di Đà Phật. Đây là cảnh giới cao nhất của thiền là trạng thái tối cao của người tu hành. Cho nên câu niệm Nam mô A Di Đà Phật là Phật chỉ ta phải trở về lại năng lượng Vô Lượng Quang tỉnh giác chứ không phải niệm bằng miệng. Niệm Phật A Di Đà có nghĩa là quy về là hòa nhập A Di Đà mới gọi là niệm A Di Đà Phật. Khi đã trở về lại Vô Lượng Quang là ta hoàn tất câu Nam mô A Di Đà Phật.
Tóm lại rằng, ta chính là ngọn đèn tắt khi đã được Minh sư mồi lại thành ngọn đèn sáng là đã cho ta thấy ta chính là A Di Đà là năng lượng Vô Lượng Quang – một năng lượng của sự sống tỉnh giác. Khi ngọn đèn trong ta đã được mồi sáng thì ta phải tiếp tục tu để tiêu trừ đi những vi tế của bản ngã và cũng để giải quyết nhân quả của ta. Khi ngọn đèn đã được cháy sáng mạnh rồi hào quang tỏa ra thì khi chết ta trở về hay hòa nhập ánh sáng của ngọn đèn ta vào Vô Lượng Quang là ta giải thoát hoàn toàn.
Mong rằng mọi người chúng ta hãy bình tĩnh suy xét lại con đường tu tập của chính mình. Hãy buông bỏ xuống bản ngã, sự chấp thủ của mình mà nhận định lại đâu là con đường giải thoát khỏi sinh tử thật sự.