Chuyển hóa năng lượng
Đạo tiên nói từ vạn pháp muôn trùng thu về 64 quẻ, từ 64 quẻ thu về bát quái, bát quái thu về tứ tượng, tứ tượng thu về lưỡng nghi, lưỡng nghi thu về thái cực. Lão Tử sau khi ngộ ra ông biết tất cả đi về một nhưng từ một đi về đâu thì Ngài không giải thích được. Đạo tiên chỉ đi hết một vòng thái cực chứ chưa bùng phát vòng vô cực. Còn đạo Phật thì đã phá được vòng thái cực để trở về vô cực. Khi hoàn tất dòng Tiểu Chu thiên thì đạo tiên đã vận chuyển được dòng năng lượng nhưng không phá vỡ được vòng thái cực để trở về vô cực, ngược lại đạo Phật chuyển hóa được qua lại năng lượng vật chất với năng lượng vũ trụ là đã phá vỡ được vòng thái cực trở về vô cực. Chỉ có đạo Phật mới giải quyết được làm thế nào để từ thái cực trở về vô cực.
Trong đạo Phật sự chuyển hóa năng lượng chỉ là một giai đoạn trong quá trình tu tập nhưng là pháp môn vô cùng quan trọng để thắng được thiên ma. Đây là pháp môn tu cực kì quan trọng để chuyển hóa được năng lượng từ năng lượng vật chất sang năng lượng vũ trụ và từ năng lượng vũ trụ sang năng lượng vật chất.
Thân này cũng ví như cái đèn dầu vậy do để lâu ngày đã bị hư hỏng từ cái vặn tim bấc, dây bấc bị đóng hạt muội than, bóng đèn bị bám khói, oxi không có, dầu đóng cặn bẩn. Khi ngọn đèn đã được lau sạch sẽ ta biết cách thông dầu lên và oxi xuống, tim đèn không đóng muội than thì khi mồi lửa vô là ngọn đèn cháy sáng ngay thôi.
Muốn vận chuyển được năng lượng đòi hỏi ta phải tu Dịch Cân Kinh, Định Niệm Hơi Thở, Thân Hành Niệm, Quán Âm. Ngọn đèn đã tắt từ lâu nên muốn ngọn đèn sáng lại ta phải lau dọn bên ngoài bằng cách tập Dịch Cân Kinh (tăng cường sức khỏe); dọn dẹp bụi bặm ở họng đèn, tim đèn, ngăn gió bụi bên ngoài bằng phương pháp đi Định Niệm Hơi Thở (ngăn nghiệp chướng bên ngoài); lau dọn bụi bên trong họng đèn, nút vặn tim đèn bằng phương pháp quay Thân Hành Niệm (tẩy rửa nghiệp chướng bên trong). Cuối cùng là tu Quán Âm, ngay khi nghe âm thanh chính là dầu đang lên và oxi đang xối xuống sẽ tạo ra một sự chuyển đổi năng lượng cho ngọn đèn cháy sáng. Vì vậy ta không nên bỏ một pháp nào trong quá trình tu vì các pháp đều hỗ trợ cho nhau từ thấp đến cao.
Để thực hành pháp môn Chuyển Hóa Năng Lượng ta phải tu Quán Âm để trừ đi những vọng tưởng và tẩy xóa những chủng tử nghiệp. Vì Quán Âm là nền tảng quan trọng để Minh Sư thọ pháp Chuyển Hóa Năng Lượng cho ta tiếp tục tu lên đẳng cấp cao hơn. Phải có pháp môn này mới chuyển hóa được âm thanh để nâng tầng âm thanh từ Phạm Âm lên Thắng Bỉ Thế Gian Âm đến Lôi Chấn Âm và cuối cùng là âm thanh Hải Triều Âm. Chuyển hóa năng lượng muốn tồn tại được phải tu Quán âm. Chính vì vậy pháp môn Quán Âm và pháp môn Chuyển Hóa Năng Lượng luôn lồng vào nhau hỗ trợ nhau để vận chuyển năng lượng từ năng lượng vật chất lên năng lượng vũ trụ và từ năng lượng vũ trụ về năng lượng vật chất.
Khi tu đến đẳng cấp này thì người tu bước ra thế gian sẽ tự tại vô ngại, không còn bị thế gian nhiễm ô, tâm như mây trời gió nước không còn vướng bận, không bị ràng buộc bất cứ điều gì. Tâm đã bất biến giữa dòng đời vạn biến. Thế gian là bất thối chuyển với họ. Ngôn ngữ cũng không thể diễn tả hết được, người nào tu đến đó sẽ tự biết. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện nếu chấp vào ngôn ngữ ta sẽ bị kẹt bởi ngôn ngữ.
Đến đẳng cấp tu này, Minh Sư sẽ thọ cho ta pháp cuối cùng là pháp trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành phật. Minh Sư sẽ mồi lại ngọn đèn Nhiên Đăng Phật để ta thấy từ ngàn xưa ta đã là ngọn đèn sáng nhưng vô minh dẫn luân hồi nên ngọn đèn sáng đã tắt. Và khi ngọn đèn được mồi sáng lại ta chính là Phật Nhiên Đăng và từ đó ta tiếp tục tu để giữ ngọn đèn sáng mãi. Ta từ tiểu vũ trụ hòa nhập vào đại vũ trụ hay từ tiểu ngã trở về đại ngã. Điều đó có nghĩa là ta đã đi hết một vòng cực từ thái cực trở về vô cực.